Tổng Giám đốc Dự án Điện gió Khe Sanh, về những câu chuyện chưa từng được tiết lộ trong quá trình chạy đua để hoàn thành dự án điện gió đúng tiến độ và được hưởng giá FIT.
Mặc dù đã thành công với việc đưa dự án điện gió vào hoạt động thương mại trước ngày 1/11/2021 – hạn cuối để được hưởng giá FIT, nhưng ông Ngọc vẫn không quên những ngày căng thẳng đầy áp lực khi phải đua với thời gian. Ông Ngọc hiện đang giữ chức vị Phó Tổng Giám đốc tại Công ty CP Tập đoàn AMACCAO.
Những cột điện mọc sát mép đường nhựa chỉ sau 1 đêm
Cuối năm 2020, dự án mới được cấp phép đầu tư và đến tháng 10/2021, AMACCAO đã thành công với việc vận hành dự án điện gió tại Quảng Trị, dù đã phải trải qua một cuộc đua đầy áp lực.
Trong quá trình thực hiện dự án, ông Vũ Văn Ngọc – Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Tập đoàn AMACCAO – chia sẻ rằng do thị trường thiếu cẩu lớn (loại cẩu tải trọng 800 tấn), họ đã phải chi ra hơn 190 tỷ đồng để mua hai cẩu tự hành loại này để kịp tiến độ. Hiện tại, hai máy cẩu đó vẫn không được cho thuê hay bán lại và có khoảng 30 bộ cẩu tương tự tồn tại ở Việt Nam.
Chúng tôi phải đối mặt với giá đền bù giải phóng mặt bằng dự án đắt đỏ gấp 8-10 lần so với các doanh nghiệp được bổ sung quy hoạch và cấp quyết định chủ trương đầu tư trước năm 2020.
Việc giải quyết vấn đề giải phóng mặt bằng không được hỗ trợ bằng cưỡng chế thu hồi đất từ Nhà nước mà phải thông qua thương lượng với tất cả các chủ sở hữu tại khu vực dự án. Điều này dẫn đến tình trạng những hộ gia đình yêu cầu mức đền bù cao hơn những hộ khác và có các trường hợp giá đền bù lên tới 50-80 lần giá của Nhà nước.
Ví dụ, một m2 đất ở huyện biên giới Hướng Hoá, Quảng Trị có giá trị lên tới 1 triệu đồng/m2, dẫn đến việc một cây khế nhỏ có thể đền bù hàng trăm triệu đồng.
Khi được hỏi về giá của cây khế nhỏ, tôi muốn giải thích thêm rằng cây khế này gặp nhiều trở ngại trong quá trình vận chuyển turbine, do đường kính chỉ 9-10cm và tuổi cây chỉ 5-7 năm nên cần phải di chuyển nó ra khỏi đường đi của turbine và sau đó đánh trả lại chỗ cũ. Mặc dù đây là cây khế thường, không phải khế cảnh, nhưng người dân đòi giá vài trăm triệu đồng, vượt xa giá trị thực của cây. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn phải chi trả để đảm bảo tiến độ dự án.
Ngoài ra, chi phí vận chuyển cát, đá, xi măng, nhân công máy xúc, máy ủi,… cũng gấp đôi giá bình thường. Để kịp tiến độ, chúng tôi đã phải mua và vận chuyển 50% khối lượng đá 1×2 và 2×4 từ Hà Nam, cách xa công trình tới 600km với giá cao khoảng 3 lần giá thị trường. Thêm vào đó, chi phí vận chuyển turbine thường chỉ chiếm 1% tổng vốn đầu tư, nhưng khi thời hạn gấp rút, chi phí này tăng gấp đôi hoặc gấp hai lần nữa.
Nếu không chấp nhận, không thể vận chuyển thiết bị đến công trường để lắp đặt bởi cần sử dụng các xe chuyên dụng siêu trường siêu trọng.
Tuy nhiên, việc xin giấy phép đường vận chuyển đòi hỏi thời gian và công sức, cần phải xin phép từ nhiều cơ quan và chi phí phải đắt đỏ. Để qua các trạm thu phí, xe phải dỡ tạm để đi qua và chi phí dỡ và sửa lại là khoảng 500 triệu đồng, tuy nhiên, họ lại yêu cầu số tiền lớn hơn nhiều lần.
Bên cạnh đó, trên đường về công trường, có nhiều đoạn đường bé và phải thỏa thuận với các hộ dân bên đường để tránh va quệt vào cây của họ.
Có một sự cố xảy ra khi chuyến xe trước đã qua mà không gặp trở ngại, nhưng đoàn xe đêm hôm sau lại bị cản trở bởi một cột đèn xuất hiện bất ngờ từ nhà dân.
Sau hai ngày đêm đàm phán và thuyết phục, chúng tôi cuối cùng cũng được giải quyết vấn đề nhờ sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, cảnh sát và các đoàn thể. Tuy nhiên, với chi phí tăng cao như vậy, liệu dự án có còn đạt được hiệu quả dự kiến không?
Những nhà đầu tư nằm trong danh sách Quy hoạch bổ sung điện và được cấp phép chủ trương đầu tư sau tháng 12/2019 và trước năm 2021 (chiếm khoảng 30% của dự án FIT) đều phải trả một giá thành cao như chúng tôi do thời gian giải phóng mặt bằng và thi công quá gấp rút. Tổng chi phí phải tăng thêm 10-15%, và trong trường hợp hiếm khi các đơn vị không thể tự thi công được, chi phí tăng thêm có thể lên tới 20% để đáp ứng giá FIT và thi công kịp thời.
Thiệt hại khác đáng kể mà nhà đầu tư phải chịu đối với dự án điện gió là việc đặt hàng và mua turbine. Bởi vì thời gian triển khai dự án ngắn hạn và nhiều dự án được triển khai đồng thời, cộng với số lượng nhà sản xuất turbine uy tín trên thế giới chỉ có khoảng 6-7, các nhà sản xuất turbine này không chấp nhận đàm phán hoặc thương lượng nhiều, gây áp lực lên giá cả và các điều kiện trong hợp đồng.
Điều này cũng làm cho nhà đầu tư phải đưa ra giá suất đầu tư cao hơn so với giá suất đầu tư lý tưởng là 32-35 tỷ đồng/MW, trong khi giá suất đầu tư thực tế là 36-42 tỷ đồng/MW cho các dự án điện gió trên bờ. Sự tăng giá này dẫn đến tăng chi phí khấu hao và lãi vay, vì vậy lợi nhuận từ giá FIT không còn lớn. Tóm lại, chỉ có khoảng 10% các dự án điện gió ở vị trí gió rất tốt mới mang lại hiệu quả, trong khi đa số các dự án khác có lãi ít hoặc thậm chí lỗ.
Các dự án điện gió có giá FIT ngoại trừ các dự án ở vị trí gió cực tốt, chỉ chiếm khoảng 10% và đa số không mang lại lợi nhuận cao. Thậm chí, một số dự án còn lỗ.
Yếu tố giá cả và hợp đồng mua turbine cũng làm tăng chi phí đầu tư. Vì số lượng dự án triển khai đồng thời rất nhiều trong thời gian ngắn, và trên toàn cầu chỉ có 6-7 nhà sản xuất turbine uy tín, các nhà sản xuất turbine không đồng ý thương lượng giá, dẫn đến giá và điều kiện hợp đồng bị ép. Điều này cũng làm giảm lợi nhuận từ giá FIT.
Vì vậy, giá đầu tư cho các dự án này, mặc dù chỉ nên ở mức 32-35 tỷ đồng/MW, nhưng lại đội lên 36-42 tỷ đồng/MW cho các dự án điện gió trên đất liền. Số liệu này cũng khiến cho khấu hao và chi phí lãi vay tăng lên. Do đó, lợi ích từ giá FIT giảm đi đáng kể.
Tóm lại, chỉ có các dự án điện gió ở vị trí gió tốt và được triển khai sớm mới có thể mang lại lợi nhuận cao. Các dự án khác, đa số chỉ có lãi nhỏ (IRR 9-10%) hoặc cân bằng tài chính. Nếu tính cả chi phí vận hành, quản lý và sau 8-10 năm khi thiết bị hỏng hóc thì không chắc dự án có còn lãi hay không.
Tôi nghĩ rằng để đánh giá chính xác, ta phải đợi đến hết tuổi đời của dự án. Tuy nhiên, có thể một số chủ đầu tư dự án điện gió không muốn công bố lỗ